Nghiên cứu nguyên nhân và các giải pháp khoa học và công nghệ phòng chống hiện tượng chổi rồng hại nhãn ở Việt Nam
Cập nhật vào: Thứ năm - 09/11/2023 04:02
Đã xây dựng được hai quy trình phòng chống bệnh chổi rồng hại nhãn hiệu quả và thân thiện với môi trường tại Tây Nam Bộ và Quy trình phòng chống bệnh chổi rồng hại nhãn hiệu quả và thân thiện với môi trường tại Đông Nam Bộ.
Tại Tây Nam Bộ:
- Phân bón hữu cơ (kết hợp bón gốc và phân bón lá) giúp tăng kích thước đọt, giảm tỷ lệ bệnh chổi rồng và tăng năng suất từ 8,9-9,2 tấn/ha so với đối chứng là 6,7 tấn/ha.
- Biện pháp cắt tỉa giúp gairm tỷ lệ bệnh chổi rồng từ 11,52-15,75% so với đối chứng là 39,75%
- Các loại hoạt chất diafenthiuron (Pengassus 500 SC), abamectin và mtrine (Sudoku 58EC), emamectin benzoate (Dylan 2EC, Angun 5WWDG), fenpropathrin (Danitol 10EC), abamectin (Acimetin 1,8 EC) đều có hiệu lực phòng trừ bệnh nhện cao, đặc biệt khi kết hợp với dầu khoáng.
- Mô hình quản lý tổng hợp bệnh chổi rồng hại nhãn tại Châu Thành – Đồng Tháp có hiệu quả phòng trừ nhện lông nhung >80% so với đối chứng ngoài mô hình, lãi thuần 73,9 -91,5 triệu đồng /ha so với đối chứng ngoài mô hình (24,1 – 30,25 triệu/ha), chênh lệch 43,65 – 64,7 triệu/ha).
Tại các tỉnh Đông Nam Bộ:
- Phân bón hữu cơ (kết hợp bón gốc và phân bón lá) giúp tăng kích thước đtọ, giảm tỷ lệ bệnh chổi rồng và tăng năng suất so với đối chứng là (chênh lệch từ 2,8 – 4,0 tấn/ha)
- Biện pháp cắt tỉa giúp giảm tỷ lệ bệnh chổi rồng từ 8,75-12,13% so với đối chứng là 33,87%
- Sử dụng thuốc Pengassus 500 SC (duafebtguyrib(min 97%) và Pegasus 500SC kết hợp với dầu khoáng để phòng trừ nhện lông nhung hại nhãn
- Phun thuốc vào thời điểm dọt có chiều dài từ 0,5 – 1 cm và bông <1-2 cm là thích hợp để bảo vệ đọt non trước sự tấn công của nhện.
- Mô hình quản lý tổng hợp bệnh chổi rồng hại nhãn tại Xuân Lộc – Đồng Nai có hiệu quả phòng trừ nhện lông nhung >90% so với ngoài mô hình, năng suất nhãn vườn đạt 14,0-14,2 tấn/ha cao hơn gấp 2 lần so với đối chứng (chỉ đạt 7,0 – 7,1 tấn/ha), tổng thu trong mô hình là 168,0 – 179,4 triệu đồng, và lãi thuần là 84,0 – 109,2 triệu đồng cao hơn gần 3 lần so với lãi thuần ở vườn đối chứng (chỉ đạt 32,68-36,45 triệu đồng), chênh lệc 72,74-86,75 triệu đồng/ha.
TS. Trịnh Xuân Hoạt - 0911849 557
- Viện Bảo vệ thực vật